Skip to content Skip to footer
-82%

Tạp Âm Trắng

Giá gốc là: $5.40.Giá hiện tại là: $0.99.

Tạp chí Time đã cho cuốn sách này vào trong danh sách “Những tiểu thuyết viết bằng tiếng Anh hay nhất từ 1923-2005.”

Tạp Âm Trắng – demo

Mô tả

Tạp Âm Trắng là cuốn tiểu thuyết thứ 8 của nhà văn nổi tiếng Don DeLillo, được xuất bản tại Mỹ năm 1985. Cuốn sách đã giành giải thưởng Sách Quốc Gia Mỹ cho hạng mục tiểu thuyết.

Tạp âm trắng được coi là một ví dụ điển hình của văn chương hậu hiện đại. Tác phẩm này được coi là một ‘bước đột phá’ của Don Delilo và khiến ông được đông đảo độc giả biết đến.

Tạp chí Time đã cho cuốn sách này vào trong danh sách “Những tiểu thuyết viết bằng tiếng Anh hay nhất từ 1923-2005.”

Nổi bật trong tác phẩm là sự đối lập cái “tạp âm” ở khắp mọi nơi của sự sống thời hiện đại với những suy tư trong lòng nhân vật chính về sự chết, ban đầu như một khái niệm trừu tượng, rồi sau đó dần dần hiện thực hoá…

***

LỜI GIỚI THIỆU

Tạp âm trắng thường được gọi là “cuốn sách đột phá” của Don DeLillo. Thuật ngữ này thường hàm một trong hai ý sau: hoặc tác phẩm đó đạt thành công thương mại lớn hơn những tác phẩm trước đó của tác giả, hoặc nó đã nâng nghệ thuật của tác giả tới tầm cao hơn. Trong trường hợp của Tạp âm trắng, ý thứ nhì thì còn phải bàn cãi, nhưng ý thứ nhất thì dứt khoát đúng, vì tiểu thuyết này có được những bài điểm sách tốt nhất và doanh số cao nhất trong sự nghiệp của DeLillo tính đến thời điểm đó. Thật chẳng khó gì để hiểu tại sao nó trở thành một trong những tác phẩm hư cấu được ca ngợi rộng rãi nhất trong thập niên 1980: cách nó mổ xẻ sắc bén và chua cay cấu trúc gia đình thời hậu hạt nhân; cách châm biếm tinh quái đối với truyền hình, quảng cáo, giới hàn lâm; cách lột tả chuẩn xác từng chữ những âm thanh và hình ảnh của siêu thị, khu mua bán và báo chí lá cải trong tác phẩm, thảy đều đánh trúng những điểm để lại âm hưởng mạnh mẽ trong người Mỹ đương thời.

Khi Tạp âm trắng được xuất bản lần đầu năm 1985, những cây bút điểm sách đều bị ấn tượng vì tính kịp thời của nó; quả vậy, ra mắt chỉ một tháng sau vụ rò rỉ hóa chất độc hại tại một nhà máy của Union Carbide ở Bhopal (Ấn Độ) làm thiệt mạng chừng 2.500 người, cuốn tiểu thuyết của DeLillo – với biến cố trung tâm là một “sự kiện chất độc trên không” – hầu như có vẻ tiên tri một cách kỳ lạ. Tuy một số cây bút điểm sách đã phê phán cốt truyện của nó (hoặc tính chất được coi là phi cốt truyện), cho rằng những nhận xét sắc bén trong đó là quá thông minh, hoặc kết án tác giả về “tính thời thượng”, song những tiếng nói này bị nhấn chìm trong lời đồng thanh khen ngợi. Cũng như với các tác phẩm trước đây của DeLillo, các cây bút điểm sách thừa nhận giá trị của cái nhìn thấu suốt của tác giả vào tác động đè nén của những định chế văn hóa đương thời và khen ngợi tài năng ngôn ngữ đáng kinh ngạc mà Tạp âm trắng thể hiện qua đối thoại sinh động và trong giọng tự sự xen kẽ hoang mang, hoảng sợ và tự phê phán của Jack Gladney. Nhiều độc giả thấy Gladney dễ tiếp cận hơn các nhân vật chính bị xa lánh trong các tác phẩm trước của DeLillo; nhiều người lớn – nhất là giới khoa bảng, theo tôi độ chừng – sẽ gật gù trước sự pha trộn giữa kết án và thán phục ngỡ ngàng của Gladney đối với nền văn hóa đại chúng. Nhưng điểm hấp dẫn dễ thấy nhất của cuốn tiểu thuyết này là chất khôi hài: đơn giản đây là cuốn sách rất vui nhộn. Tôi nhớ mình đã đọc to cho bạn bè nghe mẩu đối thoại trước khi ân ái giữa Jack và Babette về chuyện “đi vào”, đoạn mô tả việc Heinrich ngoan cố không chịu thừa nhận những bằng chứng giác quan về cơn mưa, và cuộc đua giành thế thượng phong rất buồn cười của khoa Môi trường Mỹ. Tuy các tiểu thuyết trước đó của DeLillo cũng khôi hài, nhưng chúng có góc cạnh chua cay kiểu Swift làm tổn thương với độ chính xác thản nhiên hơn. Đã có nhiều độc giả thấy chất khôi hài trong Tạp âm trắng dễ chịu hơn vì nó hoạt náo hơn nhờ một vẻ ấm áp và trắc ẩn vốn không thể hiện rõ lắm trong các tác phẩm trước đây của DeLillo.

Phần lớn tấn hài kịch ấm áp này xuất phát từ lối mô tả hơi thiên lệch của DeLillo về gia đình hậu hiện đại, nơi mà phần cốt lõi từng một thời vững chắc gồm cha, mẹ và con cái đã nhường chỗ cho một tập hợp lỏng lẻo gồm những anh chị em ruột, anh chị em khác mẹ hoặc khác cha, và bạn hôn phối cũ luân chuyển trong những nhóm tạm bợ khác nhau. Jack Gladney, giáo sư chuyên ngành Hitler học tại College-on-the-Hill ở một thị trấn có tên Blacksmith, có bốn đứa con: gồm Mary Alice (19 tuổi) và Steffie (9 tuổi) với Dana Breedlove, người vợ cưới lần thứ nhất và thứ tư; Heinrich (14 tuổi) từ cuộc hôn nhân với Janet Savory (nay là Mẹ Devi); và Bee (12 tuổi) từ cuộc hôn nhân với Tweedy Browner. Chỉ có Heinrich và Steffie sống với Jack. Cô vợ Babette của anh ta có ba con là Denise (11 tuổi), Eugene (8 tuổi) và Wilder (khoảng 2 tuổi). Như bài viết của Thomas Ferraro chỉ rõ, vì Wilder không phải con ruột của Jack, nên “gia đình” này hẳn sống với nhau chưa tới hai năm; hơn nữa, không đứa con nào sống với anh chị em ruột. Tình trạng tạm bợ kéo dài miên viễn này ảnh hưởng đến toàn bộ Blacksmith, một nơi chốn của những “cuộc bán đồ cũ có niêm yết giá hoặc không” mà ở đó “những vật dụng vô hiệu quả” minh chứng cho những cuộc hôn nhân thất bại. Mọi sự thay đổi nhanh đến nỗi cả các thành viên gia đình cũng có vẻ không biết rõ các chi tiết. Nên không ngạc nhiên gì khi Jack xem gia đình Là “cái nôi thông tin sai của thế giới”.

Nhưng tuy gia đình này xử lý dữ kiện một cách vụng về đến tức cười, song câu chuyện trao đổi của họ cũng cho thấy hệ quả không vui vẻ gì của việc sống trong một xã hội công nghệ cao: thông tin nhan nhản khắp nơi, nhưng có vẻ không ai biết chắc bất cứ điều gì. Và cũng như các thành viên gia đình thu nhận thừa mứa những thông tin lặt vặt và thức ăn nhanh, họ cũng bị ngập trong hàng tiêu dùng, không chỉ lúc tới siêu thị hay khu mua sắm, mà cả khi họ ở nhà xem ti vi, việc mà có vẻ như họ làm liên tục. Thật vậy, Tạp âm trắng trăn trở với chủ nghĩa tiêu dùng và những giá trị cố hữu của một xã hội tiêu thụ. Cách DeLillo xử lý những đặc điểm phổ biến này của đời sống hiện đại lại cân bằng một cách đáng ngạc nhiên: tuy ông châm biếm thói nghiện tiêu dùng của gia đình, nhưng ông lại đặt một số trong những câu hay nhất vào miệng đồng nghiệp của Jack Là Murray Jay Siskind, người nhiệt tình ca ngợi ti vi và mua sắm như những nghi lễ tôn giáo thời hiện đại. DeLillo mô tả cường điệu sự hiện diện mọi nơi của ti vi và chủ nghĩa tiêu dùng bằng cách chen những tiếng nói điện tử rời rạc và danh sách các thương hiệu vào giữa các cảnh truyện. Đồng thời vừa minh chứng cho chủ nghĩa hiện thực được kết cấu khéo léo của tiểu thuyết này, vừa vi phạm kết cấu đó qua việc nhắc nhở chúng ta về sự hiện diện của tác giả kiểm soát lời kể, những phần chen vào rất bí hiểm và thường chua chát này chính là một lý do khiến tác phẩm được gọi là “hậu hiện đại”.

Một lý do khác là Tạp âm trắng giễu cợt những quy ước mà có vẻ nó gợi ra, mô phỏng một số thể loại nhưng cuối cùng chẳng khớp theo cái nào cả. Ví dụ, Phần I tương đối không có cốt truyện thể hiện như một sitcom thông minh cao độ, đủ cả những đứa con khôn ngoan, những người bạn buồn cười và những xung đột vớ vẩn. Tuy nhiên, ngay trong đây, DeLillo cũng ám chỉ những nhiễu loạn sâu xa hơn: Jack và Babette tranh luận chuyện ai sẽ chết trước; Wilder kêu khóc một hồi lâu chẳng vì lý do rõ rệt nào. Mọi chuyện trở nên đen tối hơn trong Phần II, khi gia đình này bị buộc phải chạy trốn một vụ rò rỉ chất độc; tác phẩm bắt đầu giống như một truyện thảm họa hồi hộp, duy có điều DeLillo ít quan tâm mô tả tỉ mỉ chuyện nhiễm độc hơn là lần theo những ảnh hưởng khó thấy, lâu dài của nó, nhất là đối với Jack, người bị phơi nhiễm chất độc và do đó “bị tạm lên kế hoạch để chết”. Không còn tìm được an ủi khi thu mình dưới cái bóng mờ của Hitler, và thiếu đi những nối kết chặt chẽ với tôn giáo, cộng đồng hoặc gia đình, Jack bị ám ảnh đến tuyệt vọng về kiếp hữu sinh hữu tử của mình. Tiểu thuyết đến đây có vẻ chuyển thành một câu chuyện về khủng hoảng tuổi trung niên. Nhưng Jack không lao vào môn nhảy dù tự do hay tập quyền Anh. Thay vào đó, sau khi biết rằng Babette đã tham dự một thí nghiệm bí mật về Dylar, một loại thuốc được thiết kế để xua tan nỗi sợ chết, anh ta bèn lên kế hoạch kiếm thuốc đó bằng mọi giá. Những tính cách kém hấp dẫn hơn của Jack – vị kỷ, đạo đức giả, giận dữ – lộ ra, xui khiến anh ta vạch ra một âm mưu khó tin, có vẻ xuất phát từ bộ phim truyền hình nào đó. Tuy nhiên, cuộc đối đầu buồn cười xen lẫn đáng thương với kẻ thù của anh ta chẳng giải quyết được vấn đề hay cốt truyện, mà cốt truyện ấy, sau cùng, cũng không “đi về phía cái chết”. Với cái kết thúc bí hiểm, hậu hiện đại này, cuốn tiểu thuyết vượt khỏi mọi công thức mà nó đã sử dụng.

Ngay cả những người khen ngợi chất hài kịch của tác phẩm này cũng không thể bỏ qua dòng chảy ngầm sâu đầy điềm gở của nó, vì Tạp âm trắng trên hết là một cuộc mổ xẻ sắc bén lối chết của người Mỹ: một trong những tiêu đề ban đầu của tác phẩm là Tử thư Mỹ. Âm vang đáng kể của nó là do sự miêu tả không kìm nén về nỗi sợ hãi không tên thấm suốt xã hội hậu hiện đại. Giống như Murray Siskind, DeLillo đặc biệt, quan tâm đến “nỗi khiếp sợ và ma thuật Mỹ”, và truyện của ông hình tượng hóa cách nỗi ám ảnh của chúng ta đối với thể dục và bệnh tật, những tôn giáo thiên hy niên (tin vào ngày tận thế đến khi kết thúc thiên niên kỷ), những bài báo lá cải về sự phục sinh và thói tôn sùng người nổi tiếng, và chủ nghĩa tiêu dùng thúc bách đã trở thành những bùa phép đương cự với nỗi kinh hoàng của tình trạng bị quên lãng. Như thế, Tạp âm trắng là một tiểu thuyết về tôn giáo – hay có lẽ chính xác hơn, về niềm tin. Như trong Mao II (1991), ông đặt câu hỏi, “Khi Thượng đế cũ rời bỏ thế giới này, điều gì xảy ra cho khối lượng niềm tin không được dùng đến đó?” DeLillo từ lâu đã bị thu hút bởi những cuốn sách “mở lối vào điều bí ẩn lớn lao hơn nào đó” (LeClaire 1982). Tạp âm trắng là như thế, một cuốn sách liên tục ám chỉ tới điều nằm đàng sau những gì chúng ta nghe thấy, tới những gì bí ẩn, không nói ra được, huyền hoặc – những điều mà DeLillo gọi là “hào quang của tính thường ngày”. Tiểu thuyết này biến cái thế giới quen thuộc của chúng ta thành xa lạ, bằng cách lắng nghe những âm thanh và liệt kê những sản phẩm và nơi chốn – ti vi, siêu thị, các trung tâm mua sắm, cũng như “Khách sạn Marriott Sân bay, nhà trọ Travelodge Trung tâm, Nhà nghỉ và Trung tâm Hội nghị Sheraton” – là kênh chuyển tải những khao khát tâm linh của người Mỹ hiện đại. Trong Tạp âm trắng, chúng ta viếng thăm lại những đền đài nơi người Mỹ tìm kiếm “thanh thản tâm trí trong một bối cảnh vị lợi nhuận”.

Bất chấp tính độc đáo không thể phủ nhận, Tạp âm trắng cũng lặp lại những đề tài và chiến thuật trong các tác phẩm trước của DeLillo. Giống như trong ba tiểu thuyết đầu của ông, cuốn này cũng có người dẫn truyện xưng tôi mang mối quan hệ mập mờ với nền văn hóa đại chúng. David Bell, nhân vật chính trong Americana (1971), tiểu thuyết đầu tay của DeLillo, đã bỏ chỗ làm trong một hãng truyền hình để đi làm một bộ phim tự truyện về thói sùng bái những hình ảnh trong quảng cáo và truyền hình của người Mỹ. Trong một cảnh, một nhân vật trong phim của Bell gọi ti vi là “một dạng bao bì điện tử”, một cụm từ được Tạp âm trắng chuyển tải lại qua chuỗi bất tận những nhãn hiệu hàng hóa và giọng nói trên truyền hình.

Những hình ảnh tràn ngập và vẻ quyến rũ của kẻ nổi tiếng được phơi ra trên các tạp chí lá cải trong Tạp âm trắng cũng chiếm vị trí trung tâm trong Great Jones Street (1973) và Mao II. Giống Gladney, cả Bucky Wunderlick, nhân vật chính là ngôi sao nhạc rock trong Great Jones Street và nhà văn Bill Gray trong Mao II đều tìm kiếm điều mà Wunderlick gọi là “hình thức đạo đức để làm chủ thương mại” – một phương cách khám phá tính chân thực trong một thế giới tràn ngập hình ảnh và hàng hóa. Giống Bell, những nhân vật này rút vào tổ kén nơi họ viết lại những thiên tự sự riêng tư hoặc theo đuổi những cuộc truy tìm hơi có tính thiêng liêng, chỉ để rồi thấy các nỗ lực của mình bị biến thành một món hàng hóa hoặc màn trình diễn khác.

Một đề tài khác trong Tạp âm trắng cũng có trong các tác phẩm trước đó của ông là tác động xã hội của công nghệ, nhất là những sản phẩm có tính hủy diệt của nó – vũ khí hạt nhân và chất thải độc hại. Gary Harkness, người dẫn truyện trong End Zone (1972), nảy sinh sự say mê đáng bối rối với thứ ngôn ngữ và “thần học” của chiến tranh hạt nhân. End Zone đi trước Tạp âm trắng ở cả lối nhại giễu những tiểu thuyết về thảm họa và ở cảm giác yêu ghét lẫn lộn của nhân vật đối với công nghệ và những hệ quả của nó. Tương tự, cuốn Ratner’s Star (1976) pha trộn toán học và châm biếm theo kiểu Menippus để tạo thành một lời phê phán gay gắt đối với giới thẩm quyền về khoa học, phơi bày nó ra như một dạng ảo thuật tinh vi chẳng làm dịu đi hay kiềm chế được nỗi sợ chết mà nó che giấu. Trong những tiểu thuyết trước này cũng như Tạp âm trắng, khoa học gây ra bước xa lìa nguy hiểm và sâu xa khỏi thiên nhiên. DeLillo đã trở lại với những đề tài này trong tiểu thuyết sau đó của ông, Underworld (1997), với những trầm tư về quan hệ chằng chéo giữa chất thải và vũ khí.

Ba tiểu thuyết kế của DeLillo, Players (1977), Running Dog (1978) và The Names (1982), là các biến thể của loại tiểu thuyết rùng rợn về khủng bố, trong đó những nhân vật chính hoang mang đi tìm kiếm khuây khỏa trong bạo lực như để giải tỏa. Players phản chiếu mơ hồ Tạp âm trắng không chỉ trong các đối thoại siêu hạng và trong cách mô tả những tác động ru ngủ của ti vi, mà còn trong bức chân dung sắc nét về hôn nhân hiện đại. Giống như Jack Gladney, Lyle và Pammy Wynant, cặp nhân vật chính buồn chán trong Players, vừa được xoa dịu vừa bị khủng bố vì những định chế mà họ bị dính líu đến không gỡ ra được. Cuốn Running Dogs diễn biến nhanh, nhiều chất điện ảnh, đánh dấu công trình phân tích đầu tiên của DeLillo về điều mà Gladney gọi là “sức hấp dẫn đại chúng lâu dài của nền chuyên chế phát xít”. Trong Running Dogs, phần lớn sức hấp dẫn này xuất phát từ việc những hình ảnh trong phim len lỏi vào mọi ngóc ngách trong đời sống của chúng ta. Nếu trong Tạp âm trắng ti vi là một giọng nói hiện diện khắp nơi lầm bầm ở bên rìa ý thức thì trong Running Dogs sự hiện diện tràn lan của ống kính biến đổi mọi cách ứng xử thành đóng kịch, khiến nhân vật mất khả năng phân biệt giữa sự vật thật và những hình ảnh của chúng. The Names, tiểu thuyết về kiều dân Mỹ ra đời ngay trước Tạp âm trắng, lần đầu tiên khảo sát một cách công khai một đề tài vốn luôn là tiềm ẩn của DeLillo: bản chất và giá trị của bản thân ngôn ngữ. Tuy khái quát cốt truyện cũng tương tự như những tiểu thuyết trước đó của ông, nhưng The Names đem lại cho chúng ta cái kết giàu hy vọng đầu tiên của DeLillo, khi người dẫn truyện James Axton nhận ra trong thứ văn rối tung hết sức buồn cười của con trai anh một nguồn cứu chuộc, báo trước việc Jack Gladney khám phá ra tính “siêu nghiệm huy hoàng” trong những lời lẽ của con cái ông ta.

Những tác phẩm sau Tạp âm trắng cho thấy DeLillo tiếp tục thử nghiệm với hình thức và đề tài. Năm 1986, vở The Day Room của ông được dàn dựng lần đầu. Vở này suy tưởng về mối quan hệ giữa chứng điên loạn và cảm hứng sáng tác, có nhân vật chính là một diễn viên bị mặc áo bó dành cho người điên, đóng vai một cái ti vi (cũng như trong Tạp âm trắng, cái ti vi này cũng đưa ra những bình luận thích hợp). Những tiểu thuyết sau đó của DeLillo cũng sánh ngang về thành công thương mại và phê bình với Tạp âm trắngLibra (1988), kết hợp tuyệt vời giữa một tiểu sử hư cấu của Lee Harvey Oswald với tường thuật về một âm mưu ám sát tổng thống John Kennedy, được giới phê bình nhiệt liệt khen ngợi và bán chạy còn hơn cả Tạp âm trắng. Tuy khác biệt cả về cấu trúc và chủ đề, tác phẩm này giống Tạp âm trắng ở sự xem xét phản tỉnh về nhu cầu cần có những âm mưu/cốt truyện của chúng ta. Mao II, giống như Libra, đoạt một giải thưởng văn học toàn quốc quan trọng và lần đầu tiên trình bày hiểu biết của DeLillo về vị trí của nhà văn trong xã hội.

Underworld, một biên niên sử Mỹ đồ sộ từ năm 1951, phần lớn kể chuyện ngược thời gian, là tác phẩm bán chạy và được khen ngợi rộng rãi nhất của DeLillo cho đến nay. Tuy phần lớn tác phẩm của DeLillo rất cô đọng, thậm chí cụt lủn, nhưng Underworld lại trải ra trên một bối cảnh rộng lớn với mấy chục nhân vật. Một trong những nhân vật chính trong đó, Nick Shay “nhà phân tích chất thải” bị ám ảnh vì công việc, khiến ta nhớ đến nỗi ám ảnh của Gladney trước những mảnh vụn của văn hóa tiêu dùng và sự hứng thú đối với bạo lực và sức mạnh ma quỷ. Tuy Underworld vừa rộng lớn hơn vừa riêng tư hơn những tiểu thuyết trước đó của DeLillo – lần đầu tiên dựa trên quá khứ của chính ông là một người Mỹ gốc Ý lớn lên ở Bronx – tác phẩm này lại lần nữa đào sâu về mối quan hệ giữa “nỗi khiếp sợ và ma thuật Mỹ”, phân tích vô số thuyết thần học mà người Mỹ trông vào để tìm lại sự siêu nghiệm trong một thế giới của công nghệ đáng sợ và những thông điệp cường điệu.

Tạp âm trắng như vậy tập hợp nhiều nỗi ám ảnh của DeLillo trong một cuốn sách: những ảnh hưởng độc hại của chủ nghĩa tư bản, sức mạnh của những hình ảnh điện tử, uy quyền độc đoán và những sản phẩm phụ nguy hiểm của khoa học, khối liên minh xấu xa giữa chủ nghĩa tiêu dùng với bạo lực, và cuộc truy tìm tính thiêng liêng trong một thế giới đã trần tục hóa. Giống như mọi tác phẩm hư cấu của ông, tiểu thuyết này cho thấy khả năng sử dụng ngôn ngữ điêu luyện và nhất là khả năng mô phỏng những giọng điệu của nhiều loại hình văn hóa khác nhau. Trong đây ông khuếch đại những tạp âm quanh chúng ta và cho phép chúng ta nghe lại xem những âm thanh ấy định hình giọng nói và niềm tin của bản thân chúng ta ra sao.

Bài phân tích phê bình đầu tiên cho Tạp âm trắng xuất hiện chỉ hai năm sau khi nó ra đời, trong cuốn sách rất có ảnh hưởng của Tom LeClair, In the Loop: Don DeLillo and the Systems Novel. LeClair đặt DeLillo vào danh sách những “nhà văn về các hệ thống” Mỹ (như Thomas Pynchon), tức những nhà văn phân tích ảnh hưởng của các định chế đối với cá nhân. Chương sách mà LeClair dành cho Tạp âm trắng mô tả cái máy ép rác của Gladney như hình ảnh phản tỉnh của chính tiểu thuyết cũng như nước Mỹ hậu hiện đại; ông tiếp tục lý luận rằng DeLillo tìm thấy trong mớ rác ấy một nguồn siêu nghiệm cho phép Jack kiếm ra một mối quan hệ thỏa mãn hơn với thiên nhiên, thân xác của chính anh ta, và cái chết. Tiểu luận năm 1989 của Frank Lentricchia trên tập Raritan, cùng với hai tập tiểu luận do ông biên tập sau đó, góp phần thu hút sự chú ý của giới học thuật tới tác phẩm của DeLillo. Lentricchia cho rằng hình tượng “nhà kho được chụp ảnh nhiều nhất nước Mỹ” là một trong những “khung cảnh nguyên sơ” của DeLillo – và của chính chúng ta, và nhận thấy trong đó một thí dụ hoàn hảo của việc những hình ảnh đã truất chỗ của sự kiện ở nước Mỹ hiện đại.

Cả LeClair và Lentricchia cùng bàn về ngôn ngữ của DeLillo, nhưng họ nhấn mạnh thẩm quyền của ông trong vai trò nhà phê bình văn hóa. Nhiều nhà phê bình cũng chia sẻ trọng tâm này, khi Tạp âm trắng tiếp tục trở thành một trong những tiểu thuyết đương đại được giảng dạy và phân tích thường xuyên nhất. Với sự phát triển của ngành nghiên cứu văn hóa trong giới học thuật, nhiều nhà phê bình văn học đã hướng sự chú ý của họ tới chính những lĩnh vực – ti vi, quảng cáo, văn hóa đại chúng – được mô tả trong Tạp âm trắng và áp dụng những lý thuyết, chẳng hạn như những lý thuyết đã được đề xuất bởi lý thuyết gia văn hóa người Pháp Jean Baudrillard. Trong cuốn Simulations (1988) rất có ảnh hưởng của mình, Baudrillard lý luận rằng những ý tưởng và sự kiện gốc đã bị thay thế bằng những món thay thế giả tạo {simulacra} – một chuỗi thoái bộ vô tận của những bản sao chép không có bản gốc; rồi đến lượt mình, “cái thật” đã nhường chỗ cho cái mà ông gọi là “siêu thật” {hyperreal}. John Frow là người đầu tiên vạch rõ mối liên hệ giữa Tạp âm trắng với simulacra của Baudrillard, ông lập luận rằng việc thay thế bản gốc bằng bản mô phỏng vừa làm sai lạc vừa bảo tồn những huyền thoại Mỹ về nguồn gốc và tính xác thực. Một trong những động lực chính đằng sau bước biến chuyển này, theo Frow, là ti vi, món này, cùng với chủ nghĩa tư bản tiêu dùng mà nó phục vụ, đã rút giảm mọi hiện tượng xuống thành thông tin đơn thuần.

Tuy những nhà phê bình khác, đáng chú ý nhất là Leonard Wilcox, cũng đã lý giải tiểu thuyết này theo các mô hình của Baudrillard, nhưng có lẽ tuyên bố cực đoan nhất từ quan điểm này là của John Duvall, người cho rằng Tạp âm trắng là “một chú giải mở rộng… cho quan niệm của Baudrillard về xã hội tiêu thụ.” Duvall đưa ra một khẳng định cực đoan rằng xã hội tiêu thụ, vốn giả vờ như cổ xúy lựa chọn tự do, thực ra lại đang kiềm chế điều đó, và như thế nó thúc đẩy một chế độ “tiền phát xít” tóm lược lại những bạo ngược của Đức Quốc xã. Giống như Frow, Duvall tập trung vào ti vi, cái món làm đảo lộn mối quan hệ giữa kinh nghiệm trực tiếp và kinh nghiệm gián tiếp, khiến cho chỉ những gì được phương tiện truyền thông chuyển tải mới có vẻ là thật. Nhiều nhà phê bình khác, như Ferraro, đưa ra một dị bản trung dung hơn cho luận điểm của Duvall. Tuy nhiên, công trình của Duvall là mẫu mực trong việc xem xét nhân vật Murray Siskind như một phát ngôn nhân ma quỷ cho những điều mà, theo Duvall, DeLillo thấy là nguy hiểm nhất.

Cornel Bonca phản đối những nhà phê bình như Duvall và những suy luận của họ về cái nhìn theo kiểu Baudrillard của DeLillo. Dựa vào chi tiết trong cả Tạp âm trắng và The Names, Bonca phân biệt hai loại “tạp âm trắng”: loại thứ nhất xuất phát từ chủ nghĩa tư bản và hàng hóa, loại thứ nhì phát sinh từ một nguồn cội sâu xa hơn trong ý thức con người. Loại thứ hai, ông lập luận, có khả năng hóa giải nỗi sợ chết của chúng ta. Bonca tách riêng ra ba cảnh – cơn khóc kéo dài của Wilder ở chương 16, đoạn Steffie niệm câu “Toyota Celica” trong lúc xảy ra sự kiện chất độc trên không, và những lời của bà xơ Đức về tín ngưỡng ở gần cuối truyện – để trình bày phương cách DeLillo dùng hầu khám phá ra một “lối nói nguyên tuyền hơn” bên dưới và bên trong những tiếng nói Lảm nhảm trong tiểu thuyết này.

Arthur M. Saltzman cũng mổ xẻ ngôn ngữ của DeLillo; nhưng không giống Bonca xem tạp âm trắng như biểu tượng cho sự phủ nhận hoặc nỗi cái chết, Saltzman nghe nó như một âm thanh đơn điệu, ru ngủ. Với Saltzman, tính độc hại của thế giới này nằm ở tình trạng bão hòa những ngôn ngữ công thức cũng không kém gì ở những khối mây đen phồng căng nọ; thuốc giải cho chất độc thính giác này nằm trong tính sáng tạo độc đáo của ngôn ngữ ẩn dụ ở DeLillo. Giống như Bonca, Saltzman thấy tiểu thuyết này kiếm tìm điều gì đó tỏa sáng trong cái nhàm chán thường ngày, tức là cái “hào quang của tính thường ngày” đã nhắc tới ở trên.

Saltzman và Bonca gợi ra một góc độ mới trong việc phê bình DeLillo. Cả LeClair và Lentricchia đều ghi nhận việc tác phẩm của DeLillo chừa chỗ cho “tính thơ của điều bí ẩn, niềm kính sợ, và cam kết gắn bó” (Lentricchia), và xu hướng phê bình gần đây đã chuyển hướng mạnh mẽ hơn tới việc đọc DeLillo dưới góc độ tôn giáo và thần bí học. Paul Maltby nhìn thấy nơi niềm tin của DeLillo vào sức mạnh cứu rỗi của ngôn ngữ một sự tái khẳng định nền siêu hình học viễn kiến của các cây bút Lãng mạn như Wordsworth. Chống lại cách lý giải hậu hiện đại về DeLillo, Maltby mô tả một người nhân đạo chủ nghĩa tìm kiếm điều siêu phàm; như thế, tuy Maltby cũng tập trung vào việc Steffie niệm “Toyota Celila” nhưng ông không thấy trong đó thứ ma túy tiêu thụ “tổng hợp và chết người” như Saltzman, mà thấy một tiềm năng cho sự thăng hoa trong lòng cái tầm thường, mà dù sao cũng vẫn phơi bày sự trống rỗng và hời hợt của nền văn hóa đương đại.

Rõ ràng, Tạp âm trắng đủ phong phú để khơi dậy những phản ứng mâu thuẫn nhau, và sẽ còn tiếp tục kích thích chúng ta vì nó vượt khỏi một cách giải thích trọn vẹn. Đoạn kết của tiểu thuyết đặc biệt đáng chú ý về mặt này. Chúng ta lý giải thế nào chuyện Wilder đạp xe ba bánh vượt qua xa lộ liên tiểu bang? Cậu bé được thần thánh che chở hay chỉ nhờ may mắn? Nó hàm ý gì về niềm tin của Jack vào sự minh triết và ngây thơ của trẻ con? Thái độ của Jack – và của DeLillo – là thế nào đối với “những hoàng hôn hậu hiện đại” mà cư dân Blacksmith lũ lượt tới xem? Và giọng điệu của Jack là thế nào khi, vào cuối truyện, mô tả cảnh siêu thị, với những tạp chí lá cải cung cấp “mọi thứ chúng tôi cần ngoài thức ăn và tình yêu”? Có phải ông ta đang bày tỏ sự chấp nhận mê mụ? Đưa ra một cảnh báo chua chát? Tuyên bố một sự trung lập đờ đẫn? Tác giả không phán xét, nói rõ ra thông điệp của mình, cũng không cho ta một đoạn kết gọn ghẽ. Đoạn văn cuối cùng này tiêu biểu cho cách thức DeLillo hoạt động từ bên trong những định chế văn hóa mà ông đang đánh giá, để thúc đẩy một cuộc đối thoại với nền văn hóa hậu hiện đại vốn hiện hình ngay trong ngôn ngữ chúng ta nói, tuy đó là thứ ngôn ngữ được trình bày rất đẹp và đánh giá một cách mỉa mai, thứ ngôn ngữ vay mượn những công thức quen thuộc nhưng vẫn duy trì một sự chống đối chừng mực. Che giấu sự phê phán trong lời ca ngợi, Tạp âm trắng chiếm vị trí ngay tại trung tâm của nền văn hóa hậu hiện đại để cân đong những đe dọa ngoài những diệu kỳ của nó, khiến chúng ta nhận rõ hơn những thành quả rực rỡ cũng như sự tan hoang của nó.

MARK OSTEEN

Về tác giả bài này: Mark Osteen là phó giáo sư Anh ngữ tại Đại học Loyola ở Maryland, ông là tác giả cuốn The Economy of Ulysses: Making Both Ends Meet và đồng biên tập cuốn The New Economic Criticism. Các bài viết của ông về văn xuôi hiện đại và hậu hiện đại đã được đăng trên nhưng tạp chí như Modern Fiction Studies, Contemporary Literature, Twentieth Century Literature, Review of Contemporary Fiction và James Joyce Quarterly, ông hiện đang hoàn tất một cuốn về Don DeLillo có nhan đề American Magic and Dread: Don DeLillos Dialogue with Culture.

Đánh giá

Chưa có đánh giá nào.

Hãy là người đầu tiên nhận xét “Tạp Âm Trắng”

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Thông tin bổ sung

Tác giả

Don Delillo

Dịch giả

Huỳnh Kim Anh, Phạm Viêm Phương

Format

Ebook, Epub

Thể loại

Tiểu Thuyết

Số trang

411

NXB

Hội Nhà Văn

Năm xuất bản

2017